Sau những năm 1985, khi tôi đi thực tập sinh từ Hà Lan về thì một dịp may mắn được gặp ông tại Đại học Nông Lâm Huế. Đó là những ngày ông đang là một cán bộ làm công tác Nghiên cứu khoa học tại Sở Khoa học –Công nghệ Quảng Nam- Đả Nẵng. Ông về lại khoa CNTY làm trong phòng thí nghiệm cùng bà xã tôi là Lê Thu Lan. Qua công việc tôi biết ông đang chủ nhiệm một đề tài về kháng sinh thực vật nên tôi có đưa cho ông mấy tài liệu rất mới bằng tiếng Anh về Kháng kháng sinh (Anti-Anti Biotics). Là người khoa học nên ông biết giá trị của các tài liệu này tới mức nào. Mãi sau này gặp lại ông vẫn không quên nhắc lại câu chuyện ấy. Quan sát ông tôi thấy cái dáng vẻ hiền lành, đạo mạo, nghiêm túc, nho nhã và vui vẻ của ông làm tôi càng quý mến ông hơn.
Ông không phải là cán bộ quản lý, ông là giảng viên bởi cái tên cúng cơm là Nguyễn Phước Tương và nói giọng “Huế pha” là biết xuất xứ “danh gia vọng tộc” của ông rồi. Ông sinh ra, lớn lên, học hành ở Cố Đô và tốt nghiệp thời Pháp ở Huế. Kháng chiến nổ ra ông theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc, rồi tiếp tục học dần lên và cuối cùng là giảng dạy ở trường Đại học. Cuộc sống ở đây còn rất nhiều khó khăn nhưng những câu chuyện về ông làm chúng tôi “ tâm phục, khẩu phục”.
Thầy Hoàng Thạch và Thầy Nguyễn Phước Tương trong dịp về thăm khoa CNTY
Ông là người thầy có hàng mấy chục năm trong nghề giảng dạy, vậy mà người ta thấy trước giờ lên lớp, ngay trong căn phòng có mấy mét vuông của mình ông “lên” quần áo chỉnh tề đứng trước cái bảng đen nhỏ treo bên vách, rồi ông đi đi lại lại, giảng cái bài mà ông sắp lên lớp với sinh viên. Trang phục lên lớp của ông lúc nào cũng quần đen áo trắng, ủi thẳng tắp. Tất cả những việc ấy tự ông làm lấy. Lúc bấy giờ chỉ những thầy “đi Tây” về thi mới có bàn ủi chứ chúng tôi và ông thì làm gì có. Một cái ca đựng nước của bộ đội, ông sang nhà ăn tập thể xin mấy hòn than còn đỏ bỏ vào đó là thành cái bàn ủi. Ông bảo rằng “ người thầy lúc đứng trên bục giảng phải thật chỉn chu, chỉn chu về bài giảng, chỉnh chu về lời nói và chỉn chu về hình thức. Đó là mình tự coi trong mình, có như vậy bài giảng mới có hồn, sinh viên mới trọng thầy, mới nghe thầy giảng”.
Trong cuộc sống ông chu đáo, nghiêm túc. Có một câu chuyện thế này: Đầu giờ sáng hôm ấy, trước tòa nhà Ban Giám Hiệu, có một thầy giáo cán bộ phòng Giáo vụ nhà trường nhìn thấy Thầy Nguyễn Phước Tương đang xách cặp đi về phía giảng đường, thầy ấy vội vả vừa chạy vừa gọi to “ Tương ơi, Tương ơi quay lại đây nhờ chút…”. Thầy Tương không dừng lại, Thầy vẫn cứ … đi. Rồi ông Thầy kia lại gọi “ Tương ơi…”…Thấy rằng đi cũng không ổn cho lắm, thầy Tương dừng bước quay lại, nhỏ nhẹ: “Này, thưa Thầy giáo kính mến, Thầy gọi tôi cũng đã quá to mà tôi cứ tưởng thầy kêu ai ! Giũa rất đông giáo viên, sinh viên thế này mà sao thầy giáo lại kêu tên tục tôi ra mà gọi vậy ? sao Thầy không gọi tiếng “Thầy Phước Tương ơi” có dễ nghe hơn không ? Mà tôi nói thầy giáo nghe nè, trong lý lịch giảng viên mà phòng Giáo vụ quản lý thì tôi lớn hơn “Quý Thầy” một tháng tuổi đó nha !” Rồi ông quay đi. Ông Thầy Phòng Giáo vụ đứng như trời trồng giũa sân. Thực ra chuyện thay đổi lịch dạy ở một trường là chuyện bình thường, nhưng cái cách xưng hô ấy là chưa “chỉn chu”, nên ông không chịu. Ông chỉnh lại cho mà biết. Vậy thôi, Thầy Nguyễn Phước Tương mà. Nghe nói sau đó mọi việc lại vui vẻ và câu chuyện có thật này là bài học nhẹ nhàng cho những người làm công tác sư phạm. Còn nhiều chuyện nữa, nhưng nhớ đến ông là chúng tôi nghĩ đến câu nói của vị GS. Hiệu trưởng Đỗ Ánh và Ông Bí thư Đảng ủy nhà trường lúc bấy giờ “ đã là thầy là cô giáo thì phải là khuôn vàng thước ngọc”. ông là vậy.
Đất nước thống nhất ông không về quê cha dạy tại Đại học Huế mà ông về quê mẹ của ông ở thành phố Đà Nẵng, công tác trong cơ quan khoa học. Lâu lâu Đại học Huế chúng tôi lại mời ông thỉnh giảng hay nói chuyện khoa học. Tôi thì chuyển vô Tp. Hồ Chí Minh. Vậy là chúng tôi xa nhau. Những năm sau đó chúng tôi vẫn thư từ qua lại, thi thoảng ra Đà Nẵng công tác hay giảng dạy tôi ghé thăm ông. Mấy năm nay ông già và yếu đi nhiều quá. Tôi có hỏi cô Thanh Toàn- người vợ của ông, cô bảo “ Thầy yếu vậy mà không chịu nghỉ ngơi, ngồi viết hoài”.Tôi đi lại phía chiếc bàn làm việc của ông, tôi hết sức bất ngờ vì trước mắt tôi có cả ba tập thơ và chuyện ngắn của tôi đã gởi tặng ông trước đây. Tôi cầm lấy một cuốn cũ nhất “ Khe khẽ Đông về” thì thấy ông đặt những mảnh giấy nhỏ trên đó ghi mấy chữ “ bài hay” hoặc “bài thơ hay”. Tôi cảm động quá. Thấy vậy ông hỏi tôi “Hoàng Thạch có thêm cuốn nào mới nữa không?”, Tôi đáp “ dạ có Thầy ạ” rồi tôi rút trong cặp ra tặng ông cuốn “Sóng Thức”. Tay Thầy run run cầm cuốn thơ của tôi. Ông yếu thật rồi.
Không chỉ là những tài liệu, sách vở, bản thảo của ông đã viết về chuyên môn CNTY mà ông giảng dạy nghiên cứu bao nhiêu năm nay mà ông còn viết cả sang lĩnh vực khác như thơ ca, tiểu thuyết, chuyện ngắn, tự chuyện… như “Tiếng kêu cứu cửa trái đất” (1999), “ Xứ Quảng – đất và người”( 2010) “ Hội An- Di sản thế giới”(2004), “ Phố cổ em đềm”( 2010), “ 100 năm trường Quốc học Huế” (1996), “danh xưng xứ Quảng Nam”( 2001), “ Linh mục Roland Jacques – nhà ngôn ngữ học pháp và sự thật của sự phát minh chữ Quốc ngữ” (2013) … và nhiều sách viết chung. Tôi càng ngạc nhiên dừng lại ở một chồng cao về những tài liệu đồ sộ viết về biển đảo Việt Nam bao gồm cả tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp Những bài viết “ Quần đảo Hoàng Sa, không thể chuyển nhượng chủ quyền của Việt Nam”( bản thảo), “Địa chí Hoàng Sa, Trường Sa” (chờ giấy phép in)” Thuật ngữ biển đảo Pháp Việt”(bản thảo) và “ Chủ quyền khẳng định của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa qua các thư tịch có Việt Nam”(bản thảo)…
Tôi thực sự xúc động về tấm lòng của ông. Tôi lại thấy rất nhiều những lá thư tài liệu của bạn bè trong nước và thế giới gởi cho ông nói về chuyên môn và biển đảo. Điều làm tôi vui là ông cũng đã nhận được rất nhiều giải thưởng và thư khen của Tp. Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, Tp. Huế và các vị lãnh đạo cao cấp khác. Trong đó tôi thấy có tấm bảng khá to và trịnh trọng “ Đại Lão Hoàng Sa- Nguyễn Phước Tương” bằng cả tiếng Hán và tiếng Việt.
Tôi rời Đà Nẵng trong một chiều mưa. Mấy giờ liền ông tiếp vợ chồng tôi và một Bác sỹ người Pháp, tôi thấy có lúc ông phải dừng lại để lấy hơi. Ông say sưa nói chuyện rất nhiều về những tác phẩm sắp tới của mình mà quên đi rằng ông đang bị trọng bệnh. Tôi ái ngại rằng cả cái khối tài liệu và bản thảo đồ sộ kia có thể nào hoàn thành nổi trước lúc ông từ biệt trần gian này ? Những thứ đó đang vắt cho kiệt nốt cái sức lực còn lại của ông (!). Ông đang giành nhau với thời gian, bởi ông cũng đã gần“cửu thập”(U 90) rồi, nói vậy nhưng chúng tôi cũng không ngờ rằng đó là lần gặp ông cuối cùng. Tạm biệt ông, tạm biệt căn nhà K3/10 Trần Quý Cáp Tp.Đà Nẵng mà lòng chúng tôi nặng trĩu vừa cảm phục vừa thương ông vô hạn.
Rồi một chiều trời ảm đạm tháng hai âm lịch năm Ất Mùi (2015) ông đã “ra đi”. Dẫu biết rằng “sinh ký tử quy” là quy luật muôn đời của tạo hóa, nhưng tim chúng tôi đau thắt. Tôi đã khóc. Sự đau đớn hụt hẫng như một lần nữa tôi lại mất đi một người bạn, người đồng nghiệp, người thầy, người cha. Một nỗi buồn và hối tiếc khôn nguôi về những bản thảo dở dang, những mong muốn cho một đất nước trọn vẹn bờ cõi kia của ông sẽ có ai viết tiếp đây? và có ai sẽ xin giấy phép xuất bản cho những tác phẩm của ông còn nằm ở kia không ? …
Ghi chú : Bài này đã đang trên báo “SÀI GÒN GIẢI PHÓNG” số ra ngày Chủ nhật ngày 15.11.2015, dưới đầu đề “Nhớ Thầy”. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Trường Đại học Nông Lâm Huế ( ĐHNN2 ). Xin chuyển ra Trường làm kỷ niệm.